PHÒNG NGỪA VÀ TRỊ LIỆU UNG THƯ: TÍCH HỢP Y HỌC CỔ TRUYỀN HÀN QUỐC VÀO CHĂM SÓC UNG THƯ HIỆN ĐẠI (PHẦN 6)


TÍCH HỢP Y HỌC CỔ TRUYỀN HÀN QUỐC VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BẰNG Y HỌC HIỆN ĐẠI

Ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh hiệu quả của các phương thức điều trị TKM và hỗ trợ nhu cầu tích hợp TKM vào chăm sóc ung thư hiện đại. Dữ liệu từ cả nghiên cứu sơ bộ và lâm sàng được bao gồm, đề cập cụ thể đến việc phòng ngừa và điều trị ung thư.
Cải thiện lối sống hàng ngày

Các bài tập thể dục truyền thống như Khí công hoặc Thái cực quyền có thể được khuyến khích cho bệnh nhân ung thư để duy trì hoạt động thể chất thích hợp và giảm lo lắng. Trong một nghiên cứu, những bệnh nhân ung thư vú được đào tạo theo kiểu này cho thấy chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe cũng như lòng tự trọng tăng lên. (237)

Duy trì tinh thần và cơ thể khỏe mạnh giúp giảm căng thẳng và cải thiện chất lượng cuộc sống, và các nghiên cứu đã chỉ ra tác động của phản ứng tâm lý đối với sự sống còn của bệnh nhân ung thư. (238) Vì tuân theo nhịp sinh học tự nhiên rất quan trọng trong TKM, nên một lịch trình ngủ nghiêm ngặt được khuyến nghị để cải thiện chất lượng giấc ngủ. Điều trị bằng châm cứu đã được chứng minh là cải thiện chất lượng giấc ngủ ở những bệnh nhân bị mất ngủ và lo lắng. (239)

Hiệu ứng chống ung thư

Có nhiều cây thuốc đã được báo cáo là có tác dụng chống ung thư như trong Bảng 2. Các công thức như Ka-mi-kae-kyuk-tang, (240) Pal-jin-hang-ahm-dan, (241) Yuk-hap-tang, (242) Ge-jee-bok-ryung-hwan, (243) Je-chun-jun, (244) Si-ho-ga-yong-gol-moryo-tang, (245) Hae-am-tang, (246) và Sip-jeon-dae-bo-tang (247, 248) cũng đã được báo cáo về tác dụng chống ung thư trong các nghiên cứu tiền lâm sàng.

Cây sơn (Rhus verniciflua) đã được nghiên cứu chuyên sâu về tác dụng ức chế khối u; flavonoid được tinh chế từ loại thảo mộc này tích cực ức chế sự phát triển của tế bào và gây ra quá trình apoptosis. (160, 212) Rhus verniciflua cũng là một tác nhân được nghiên cứu lâm sàng để điều trị ung thư, với các bằng chứng lâm sàng được công bố cho thấy hiệu quả trong ung thư đại trực tràng di căn, ung thư biểu mô tế bào thận, ung thư dạ dày và ung thư phổi. (249- 252)

Thang thuốc Hang-am-dan (HAD) hay Hang-am-plus (HAP) là một công thức bao gồm Panax notoginseng radix (Điền thất, Tam thất), Cordyceps militaris (Nấm đông trùng hạ thảo), Cremastrae appendiculata củ Kem tra họ Lan Chi Cremastra, Địa lan, Panax ginseng radix (củ nhân sâm), Bovis calculus (ngưu hoàn), Margarita (xuyên bối mẫu), Boswellia carteri (Nhũ hương, Hắc lục hương, Địa nhũ hương, Thiên trạch hương, nhựa Trám) và Commiphora myrrha (cây Một dược). HAP đã được nghiên cứu về hiệu quả của nó trong việc chống tạo tế bào, ức chế tăng sinh tế bào ung thư và di căn, (253) và kết quả lâm sàng đầy hứa hẹn đối với điều trị ung thư dựa trên HAP cũng đã được báo cáo. (254- 256)

Châm cứu là một phương pháp điều trị mới được phát triển phương thức trong TKM bằng cách sử dụng kết hợp các công thức thảo dược và các kỹ thuật châm cứu. Dược liệu nhân sâm núi đã cho thấy hiệu quả giai thoại trong việc quản lý ung thư phổi không phải tế bào nhỏ. (257)

Giảm thiểu các tác dụng phụ

Các tác dụng phụ liên quan đến điều trị ung thư thông thường có thể được giảm bớt bằng cách sử dụng các phương thức TKM. Buồn nôn và nôn do hóa trị là một triệu chứng phổ biến ở bệnh nhân ung thư và có thể được kiểm soát bằng các loại thuốc chống nôn thông thường. Tuy nhiên, những bệnh nhân có đáp ứng kém hoặc những người gặp khó khăn trong việc uống thuốc có thể được lợi bằng phương pháp điện châm (258) hoặc kích thích huyệt P6. (259) Bệnh nhân có thể gặp bệnh thần kinh ngoại biên do hóa trị, trong khi phẫu thuật và xạ trị cũng có thể gây ra bệnh thần kinh ở vùng được nhắm mục tiêu. Thuốc phiện và thuốc giảm đau khác cũng như một số thuốc chống co giật được kê đơn để kiểm soát các triệu chứng này, (260) nhưng châm cứu cũng cho thấy tác dụng tích cực đối với bệnh thần kinh ngoại biên do hóa trị liệu trong một nghiên cứu thí điểm và một loạt trường hợp. (261, 262) Châm cứu bằng nọc ong cũng đã được sử dụng để điều trị bệnh thần kinh. (263) Woo-cha-sin-ki-hwan, khi dùng đồng thời với chế độ hóa trị, rất hữu ích trong việc ngăn ngừa bệnh thần kinh ở những bệnh nhân ung thư đại trực tràng không thể cắt bỏ hoặc tái phát được điều trị bằng chế độ FOLFOX. (264) Thuốc thảo dược cũng có thể được sử dụng để giảm các triệu chứng thiếu hụt estrogen liên quan đến chứng vô kinh liên quan đến hóa trị, (265) hoặc để giảm các tác dụng điều trị bất lợi trên đường tiêu hóa, chẳng hạn như tiêu chảy hoặc nôn mửa. (266, 267)

Xerostomia do bức xạ là tình trạng khô miệng do xạ trị ở bệnh nhân ung thư đầu và cổ, và nó có thể làm suy giảm đáng kể chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng châm cứu giúp giảm triệu chứng đáng kể so với nhóm đối chứng. (268, 269) Ở bệnh nhân ung thư đầu cổ, sử dụng đồng thời thuốc thảo dược trong quá trình xạ trị cũng giúp giảm cân và cải thiện chất lượng cuộc sống. (270)

Xử trí các triệu chứng phổ biến khác

Đau là một triệu chứng phổ biến ở bệnh nhân ung thư và thường được quản lý theo thang giảm đau của Tổ chức Y tế Thế giới. Trong trường hợp không kiểm soát được cơn đau về mặt dược lý, hoặc do các tác dụng phụ liên quan đến giảm đau tăng lên, có thể sử dụng moxibration (giác ngãi cứu) hoặc châm cứu một mình hoặc bổ sung cho phương pháp điều trị bằng thuốc thông thường. (271, 272) Vì nhiều bệnh nhân ung thư cũng bị đau không liên quan trực tiếp đến ung thư, chẳng hạn như đau lưng hoặc đau đầu, châm cứu có thể giúp giảm các triệu chứng bổ sung này. (273, 274)

Mệt mỏi liên quan đến ung thư cản trở các hoạt động hàng ngày và ảnh hưởng đến các khía cạnh khác nhau của cuộc sống bao gồm các khía cạnh sinh lý, xã hội và tâm lý. Nhiều nghiên cứu đã phát hiện ra rằng tỷ lệ mệt mỏi ở bệnh nhân ung thư vượt quá 60%. (275) Điều trị bằng châm cứu có tiềm năng tuyệt vời để kiểm soát chứng mệt mỏi liên quan đến ung thư trong bối cảnh thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên. (276) Các cây thuốc có đặc tính tăng cường sinh lực Qi như Panax ginseng (nhân sâm) hoặc Astragali radix (Hoàng kỳ) cũng có thể được sử dụng theo phác đồ điều trị TKM. (23) Bojungikki-tang là một công thức thảo dược có chứa cả Panax ginseng và Astragali radix, đã được chứng minh hiệu quả trong việc giảm mệt mỏi do ung thư. (277) Hỗn hợp chiết xuất từ ​​Astragali radix (Hoàng kỳ) và Salviae radix (Đan sâm) cũng cải thiện tình trạng mệt mỏi mãn tính trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng. (278)

Chán ăn và suy mòn cũng là những triệu chứng phổ biến và gây suy nhược của bệnh ung thư, ảnh hưởng đến 60% đến 70% bệnh nhân. Nhiều yếu tố như tác động tiêu hóa, tác động toàn thân với thay đổi chuyển hóa, và tác dụng phụ do điều trị ung thư có thể góp phần gây ra các triệu chứng này. (279, 280) Nước sắc từ thảo dược dựa trên Astragali radix (Hoàng kỳ) đã chứng minh một số tiềm năng trong việc kiểm soát chứng chán ăn liên quan đến ung thư. (281) Aractylenolide I, chiết xuất từ ​​thân rễ Atractylodes (Bạch truật), đã được đề xuất như một phương pháp điều trị hữu ích làm giảm bớt tình trạng suy mòn do ung thư dạ dày. (282) Bojungikki-tang, chứa cả cơ số Astragali và thân rễ Atractylodes, kích thích sự thèm ăn và tăng lượng thức ăn trong các quan sát lâm sàng. (283)

Thành phần của Bojungikki-tang sửa đổi (BJIKT)


Thành phần của Bojungikki-tang sửa đổi (BJIKT)

Các nghiên cứu lâm sàng về châm cứu đã được thực hiện trên các tình trạng khác nhau liên quan đến ung thư, chẳng hạn như bốc hỏa, khó thở (284, 285) và giảm bạch cầu, (286) và các nghiên cứu sâu hơn với mức độ mạnh hơn được đảm bảo. Mặc dù thuốc hợp thành Sasang là một phần quan trọng của TKM, các nghiên cứu lâm sàng nghiêm ngặt về điều trị ung thư vẫn chưa được thực hiện, trong khi các nghiên cứu điển hình thú vị về các liệu pháp điều trị ung thư sử dụng thuốc hợp lệ Sasang đã được công bố, bao gồm điều trị cổ trướng khó chữa, đau bụng, tiêu chảy và rối loạn tiết niệu. (287- 290)

Tác dụng bảo vệ bức xạ hoặc nhạy cảm với bức xạ

Các loại thảo mộc khác nhau như cam thảo, (291) Vigna radiate (Đậu xanh), (292) Angelica sinensis (Đương quy), (293) Cordyceps sinensis (Đông trùng hạ thảo), (294) và Panax ginseng (Nhân sâm) (295) đã được chứng minh là có đặc tính bảo vệ phóng xạ. Curcumin (Nghệ) và Panax notoginseng (Điền thất, tam thất) được phát hiện có tác dụng gây mẫn cảm khi sử dụng với bức xạ, có thể bằng cách ức chế các con đường dẫn đến kháng điều trị. (296, 297)

Tác dụng bảo vệ hóa học hoặc giảm nhạy cảm

Trong điều trị ung thư, các chất bảo vệ hóa học là thuốc bảo vệ các mô khỏe mạnh khỏi tác động độc hại của thuốc chống ung thư. (298) Nhân sâm hoang dã được trồng cho thấy có tác dụng bảo vệ chống lại độc tính do tác nhân hóa trị liệu gây ra. (299) Các báo cáo gần đây đã chỉ ra rằng decursin chiết xuất từ ​​các cây thuốc như Angelica gigas nakai (Đương quy Hàn quốc) có thể gây apoptosis, ngăn chặn sự phát triển của khối u và ức chế sự hình thành mạch. Dựa trên thí nghiệm này, decursin có thể là một ứng cử viên tiềm năng để vượt qua tính kháng hóa học thông qua việc ức chế đường truyền tín hiệu. (300) Sự liên quan của curcumin như là chất nhạy cảm của nhiều dòng tế bào ung thư kháng hóa chất với các tác nhân hóa trị liệu cũng đã được nghiên cứu. (301, 302) Sử dụng đồng thời thuốc thảo dược dựa trên xương cựa kết hợp với hóa trị liệu dựa trên bạch kim đã cải thiện phản ứng của khối u, đảm bảo nghiên cứu thêm về hiệu quả của các phương pháp điều trị như vậy. (303)

KẾT LUẬN

TKM có một lịch sử lâu dài về nhận thức và quản lý ung thư, và các bằng chứng khoa học gần đây trong cả nghiên cứu sơ bộ và lâm sàng đã hỗ trợ việc tích hợp TKM vào chăm sóc ung thư thông thường. TKM cho rằng ung thư là kết quả của một mạng lưới cơ thể - tâm trí - tinh thần mất cân bằng, đòi hỏi các phương pháp tiếp cận đa phương thức, bao gồm thay đổi lối sống, kê đơn cây thuốc, châm cứu, xoa bóp, tập thể dục truyền thống và thiền định, để khôi phục sự cân bằng và tăng cường sinh lực của Khí. Trong TKM, cảm xúc nói riêng được coi là yếu tố quan trọng trong việc khởi phát và phát triển bệnh ung thư. Duy trì Qi (khí), hay chức năng miễn dịch, trong quá trình điều trị ung thư cũng là một nguyên tắc chính của TKM, vì phẫu thuật hoặc các phương pháp điều trị ung thư gây độc tế bào khác có thể làm hỏng hệ thống phòng thủ tự nhiên của bệnh nhân.

Nhiều nghiên cứu khác nhau đã điều tra TKM, đặc biệt là trong các lĩnh vực điều chỉnh lối sống; tác dụng chống ung thư, bảo vệ phóng xạ / nhạy cảm với phóng xạ, và tác dụng bảo vệ hóa học / hóa trị liệu; và giảm bớt các tác dụng phụ. TKM cũng hữu ích trong việc kiểm soát các triệu chứng ung thư phổ biến, chẳng hạn như đau, mệt mỏi liên quan đến ung thư, chán ăn và suy mòn, và các nghiên cứu gần đây cho thấy việc sử dụng phương pháp điều trị TKM ở bệnh nhân ung thư có thể tăng khả năng sống sót. Dựa trên kết quả của những nghiên cứu này, phương pháp điều trị TKM có thể được tích hợp hiệu quả vào hệ thống chăm sóc ung thư hiện đại. Đối với các bác sĩ đa khoa, việc hiểu rõ hơn về các nguyên tắc của TKM và ứng dụng lâm sàng của nó cho bệnh nhân ung thư sẽ thúc đẩy chăm sóc ung thư tích hợp, hiệp đồng và có thể thu hẹp khoảng cách giao tiếp giữa các bác sĩ.

Trong khi một thử nghiệm lâm sàng mù đôi, ngẫu nhiên được coi là bằng chứng lâm sàng mong muốn nhất cho các bác sĩ y khoa nói chung, không có nhiều thử nghiệm lâm sàng về phương pháp điều trị TKM đã được báo cáo theo cách này, vì điều trị TKM đích thực hoặc chăm sóc ung thư tích hợp TKM có thể được cá nhân hóa rất nhiều. Tuy nhiên, các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tiếp theo phản ánh các đặc điểm cơ bản của điều trị TKM nên được tiến hành và, nếu cần, có thể áp dụng thiết kế thử nghiệm lâm sàng thực dụng hoặc nhạy cảm với bối cảnh. (304) Hơn nữa, coi việc duy trì Qi là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của TKM, các nghiên cứu lâm sàng được đảm bảo sẽ điều tra các chiến lược điều trị ung thư tập trung nhiều hơn vào việc duy trì Qi của bệnh nhân thay vì chỉ đơn giản là tiêu diệt tế bào ung thư hoặc giảm kích thước khối u.

Biên soạn: NGUYỄN LỰC

Lưu ý: Cần hỏi thầy thuốc về các bài thuốc và dược liệu trước khi sử dụng cho việc điều trị.

___________________________________________ 
Tham khảo bài của Seong Woo Yoon, MD (KMD), Tiến sĩ - Jong Soo Jeong, MD (KMD), Tiến sĩ - Ji Hye Kim, Tiến sĩ - Bharat B. Aggarwal, PhD, Tiến sĩ.-Khoa Nội, Đại học Kyung Hee Hàn Quốc - Bệnh viện Y học tại Gangdong, Seoul, Hàn Quốc - Trung tâm Ung thư M. D. Anderson của Đại học Texas, Houston, TX, Hoa Kỳ. Đồng tác giả: Bharat B. Aggarwal, Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Cytokine, Khoa Trị liệu thử nghiệm, Đại học Texas M. D. Anderson; Trung tâm Ung thư, 1515 Đại lộ Holcombe, Đơn vị 1950, Houston, TX 77030, Hoa Kỳ. Email: aggarwal@mdanderson.org. Tài liệu tham khảo xin xem cuối bài Bài gốc: https://journals.sagepub.com/doi/10.1177/1534735413510023



Bài có thể bạn quan tâm

0 Bình luận